Bị tòa án bác đơn ly hôn, khi nào được nộp đơn lại?

Bị tòa án bác đơn ly hôn, khi nào được nộp đơn lại?

Căn cứ các quy định pháp luật hiện nay trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014 và Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, không có quy định nào về thời gian nộp đơn ly hôn lại sau khi bị Tòa án bác đơn.

Tuy nhiên căn cứ điểm c Mục 10 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP có quy định sau:

10. Ly hôn theo yêu cầu của một bên (Điều 91)

c. Cần chú ý là tuy pháp luật tố tụng chưa quy định, nhưng đối với người có đơn yêu cầu xin ly hôn mà bị Toà án bác đơn xin ly hôn thì sau một năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án bác đơn xin ly hôn có hiệu lực pháp luật, người đó mới lại được yêu cầu Toà án giải quyết việc xin ly hôn.

Theo đó, đối với trường hợp một bên đơn phương nộp đơn ra tòa mà bị tòa án bác đơn, thì thời gian nộp lại đơn ly hôn khác là sau một năm sau.

Mục đích của quy định này là tạo khoảng thời gian hợp lý tạo điều kiện cho vợ chồng có thể hòa giải, suy nghĩ, xem xét lại quyết định xin ly hôn của mình.

bi-toa-bac-don-ly-hon-hi-nao-duoc-nop-lai

Đất đai là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn đất đai này chia thế nào?

Yêu cầu ly hôn thế nào thì hợp lý? Lý do ly hôn nào dễ được chấp nhận?

Bản án ly hôn của Tòa án nước ngoài có được công nhận tại Việt Nam không?

Căn cứ bác đơn ly hôn của tòa án hiện nay là gì?

Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định

Ly hôn theo yêu cầu của một bên

1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.

Ngoài ra tại Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định

Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn

1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Như vậy, căn cứ để Tòa án có thể bác đơn trong các trường hợp sau:

+ Không có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình, hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

+ Không có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia trong trường hợp Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 nêu trên.

+ Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Vợ chồng thuận tình ly hôn khi đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi được không?

Căn cứ Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định như sau:

Thuận tình ly hôn

Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.

Đồng thời, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định hạn chế quyền ly hôn chỉ áp dụng đối với trường hợp chồng đơn phương yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Như vậy, trên tinh thần tôn trọng thỏa thuận giữa các bên, hiện nay các quy định không cấm trường hợp vợ và chồng thuận tình ly hôn ngay cả khi vợ đang mang thai, sinh con hoặc nuôi con nhỏ dưới 12 tháng. Ngoài ra trường hợp người vợ đang mang thai, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng vẫn có thể đơn phương yêu cầu ly hôn đối với người chồng khi có những căn cứ tại khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Bài viết liên quan

09 69 60 30 30

Contact Me on Zalo