Danh sách 22 trường hợp ly hôn không thành

Tài liệu “TỔNG HỢP 22 BẢN ÁN TÒA ÁN KHÔNG CHẤP NHẬN CHO LY HÔN” do các Luật sư/ Chuyên viên pháp lý của  chúng tôi sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ mục đích học tập, nghiên cứu. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và các mục đích bất hợp pháp.

ly-hon-khong-thanh
Ly hôn không thành

MỤC LỤC

Tổng hợp 22 bản án về yêu cầu ly hôn nhưng tòa không chấp nhận cho ly hôn

STT

TÊN VĂN BẢN

SỐ TRANG

01

Bản án số 77/2020/HNGĐ-PT 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Cấp xét xử: Phúc thẩm

Về việc Xin ly hôn

Chị Nguyễn Thị H yêu cầu Tòa án cho ly hôn với anh Nguyễn Huy C vì vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thiếu sự chia sẻ và xác định không còn tình cảm vợ chồng. Anh C không đồng ý ly hôn.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: chấp nhận đơn xin ly hôn của chị H, chị H được ly hôn với anh C.

Anh C kháng cáo đề nghị Tòa án hủy bản án sơ thẩm để vợ chồng anh được đoàn tụ vì anh hết sức yêu vợ, cho rằng tòa án đã giải quyết nhanh chóng bỏ qua quyền lợi của anh.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định: Mâu thuẫn giữa anh C và chị H chưa lớn, chủ yếu xuất phát từ việc nuôi dạy và gửi giữ con chung; Vợ chồng anh C và chị H là vợ chồng trẻ, có thời gian sống hạnh phúc dài nên Hội đồng xét xử sẽ tạo thời gian để anh chị hàn gắn mâu thuẫn, khắc phục những khuyết điểm của nhau. Tuyên xử chấp nhận một phần kháng cáo của anh C. Bác đơn ly hôn của chị H đối với anh C, vấn đè về con chung và tài sản chung của hai bên không đặt ra.

01 – 05

02

Bản án số 206/2019/HNGĐ-PT 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Cấp xét xử: Phúc thẩm

Về việc ly hôn

Ông T1 yêu cầu ly hôn với bà T2 vì mâu thuẫn vợ chồng, ông có tình cảm với người phụ nữa khác và hai bên đã tự hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Cả hai ông bà có 02 con chung, sau ly hôn, ông T1 để bà T2 nuôi cả 2 con và cấp dưỡng mỗi con 7.500.000 đồng/tháng. Bà T2 trình rằng bà T2 còn tình cảm. Nếu ly hôn thì bà đồng ý nuôi cả hai con và yêu cầu ông T1 cấp dưỡng mỗi con là 15.000.000 đồng/tháng.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên: không chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông T1 đối với chị T2.

Ông T1 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm yêu cầu tòa giải quyết ly hôn vì tình cảm vợ chồng không còn. Bà T2 vẫn khồng đồng ý ly hôn, còn thương chồng, thương hai con nhỏ.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông T1, giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên. Ông T1 không được ly hôn với bà T2.

06 – 11

03

Bản án số 57/2019/HNGĐ-ST 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm tỉnh Vĩnh Long

Cấp xét xử: Sơ thẩm

Về việc Tranh chấp hôn nhân và gia đình

Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị N yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh N. Về phía anh N, anh N cho rằng còn tình cảm với chị N nên xin đoàn tự, không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị N.

Toà án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định và tuyên xử: anh N và chị N sống hạnh phúc từ năm 2014 đến năm 2019, mâu thuẫn của hai người là mâu thuẫn nhỏ, nguyên nhân là do lỗi anh N nóng tính. Xét chị N không đưa được chứng cứ chứng minh mâu thuẫn trầm trọng, thời gian ly thân của hai người nắn. Tuyên xử không chấp nhận yêu cầu của chị N xin ly hôn với anh N.

12 – 16

04

Bản án số 17/2019/HNGĐ-PT 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang

Cấp xét xử: Phúc thẩm

Về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con

Anh P yêu cầu ly hôn với chị T vì hai người phát sinh mâu thuẫn sau khi sinh con. Chị T coi trọng tiền bạc, không tôn trọng cha mẹ chồng nên thường xuyên cãi vả, vợ chồng sống chung nhưng không còn quan tâm nhau. Theo như Chị T trình bày, mâu thuẫn xảy ra do anh p bán nhà riêng để xây nhà cho cha mẹ, anh P còn ham mê cờ bạc, gà đá, nhiều lần chị T khuyên nhủ nhưng không nghe. Chị không đồng ý ly hôn vì còn thương chồng và con còn nhỏ.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: không chấp nhận yêu cầu của anh P về việc ly hôn với chị T.

Anh P có đơn kháng cáo không đồng ý với toàn bộ nội dung của bản án sơ thẩm, sửa lại nội dung theo hướng chấp nhận đơn khởi kiện của anh.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định và tuyên xử: Mâu thuẫn của anh P và chị T chưa thật sự trầm trọng mà có thể hàn gắn được, vợ chồng đôi lúc cãi cự chủ yếu vì chị T không tôn trọng chồng và bố mẹ chồng. Chị T hứa sẽ khắc phục để vợ chồng đoàn tụ. Tuyên xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh P, giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên.

17 – 21

05

Bản án số 06/2019/HNGĐ-ST 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hành tỉnh Quảng Ngãi

Cấp xét xử: Sơ thẩm

Về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn

Anh Q yêu cầu ly hôn vì chị N thiếu sự quan tâm chăm sóc đối với anh Q, thường xuyên về nhà mẹ đẻ. Chị N trình bày hiện nay hai vợ chồng vẫn chung sống bình thường với nhau, không có mâu thuẫn nên không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của anh Q. Mong muốn đoàn tụ chung sống, cùng làm ăn nuôi dạy con chung.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định và tuyên xử: Giữa anh Q và chị N không có mâu thuẫn, chị N hay về nhà mẹ đẻ vì nhờ mẹ chăm nom cháu (do mẹ anh Q đã mất). Tòa không đồng ý cho ly hôn vì vợ chồng vẫn còn hạnh phúc, vợ chồng không mâu thuẫn, vì tính chất công việc nên có những đêm chị N không về nhà được và do mẹ chị N lớn tuổi, phải ở lại chăm sóc cho mẹ. Anh Q không chứng minh được việc chị N không chăm lo cho gia đình. Tuyên xử không chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Q đối với chị N.

22 – 27

06

Bản án số 05/2019/HNGĐ-PT 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

Cấp xét xử: Phúc thẩm

Về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con. Chia tài sản khi ly hôn

Bà C yêu cầu ly hôn với ông H vì ông H không có lập trường, không quan tâm lo lắng đến gia đình, vợ con, dù bà góp ý nhiều lần nhưng ông H bỏ qua, không nghe. Giữa bà và ông H có một con chung, khi ly hôn bà yêu cầu ông H cấp dưỡng 2.000.000 đồng/tháng, nhưng nếu ông H chỉ đồng ý cấp dưỡng cho con 500.000 đồng/tháng thì bà cũng đồng ý. Ông H trình bày vợ chồng xảy ra mâu thuẫn là do tính bà C lúc thế này, lúc thế kia, vợ chồng không hợp tính cách, quan điểm sống. Bà C yêu cầu ly hôn thì ông đồng ý.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên: ghi nhân sự thuận tình ly hôn của bà C và ông H. Bà C trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng con chung và ông H cấp dưỡng cho con 500.000 đồng đến khi con đủ 18 tuổi. Chia tài sản chung…

Sau bản án sơ thẩm, ông H kháng cáo, bổ sung kháng cáo yêu cầu hủy bản án ly hôn để vợ chồng đoàn tụ.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định và tuyên xử: ông H cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn do bà C nói nhiều, còn bà C cho rằng do ông H không có lập trường, hay nói xấu vợ. Ông H vẫn còn thương yêu bà C nên mong muốn đoàn tụ. Bà C cũng đồng ý vợ chồng đoàntụ, nhưng ông H phải thay đổi tính tình, ông H đồng ý với yêu cầu của bà C, tuy nhiên bà C không đồng ý rút đơn khởi kiện. Hội đồng xét xử tuyên chấp nhận kháng cáo của ông H, sửa bản án sơ thẩm. Không chấp nhận đơn khởi kiện của bà c về việc yêu cầu ly hôn với ông H.

28 – 33

07

Bản án số 01/2019/HNGĐ-ST 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình

Cấp xét xử: Phúc thẩm

Về việc Ly hôn, chia tài sản chung khi ly hôn

Anh L yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị P. Nguyên nhân do chị Phương thay đổi tính tình cũng như tình cảm, mâu thuẩn vợ chồng ngày càng trầm trọng, đã được chính quyền địa phương hoà giải nhưng càng ngày tình cảm vợ chồng không còn, tính tính vợ chồng không hợp, vợ thường xuyên bạo hành, chửi bới, cuộc sống chung không hạnh phúc. Về phía chị P trình bày rằng hai người vẫn còn tình cảm và chưa có mâu thuẫn gì lớn, đề nghị tòa hòa giải cho đoàn tụ.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định và tuyên xử: Nguyên nhân vợ chồng mâu thuẩn phần nhiều là do chị P thiếu sự dịu dàng, mềm mại của người phụ nữ, người vợ, nói những lời lẽ khó nghe, thiếu tôn trọng anh L. Chị P đã biết sai nên cần tạo cho chị P một cơ hội để chị sữa chữa, khắc phục khuyết điểm của mình; hơn nữa anh L tuổi đã cao, thị giác kém, nếu ly hôn anh phải sống dựa vào con gái để được chăm sóc trong khi chị P tha thiết đề nghị cho vợ chồng đoàn tụ để chị làm tròn trách nhiệm của người vợ. Tòa án tuyên xử bác yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Lê Văn L. Quan hệ giữa anh Lê Văn L và chị Võ Thị P vẫn là quan hệ vợ chồng.

34 – 41

08

Bản án số 77/2018/HNGĐ-ST 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau

Cấp xét xử: Sơ thẩm

Về việc tranh chấp ly hôn

Anh Tuấn A nộp đơn khởi kiện xin ly hôn với chị T.

Do công việc nên anh Tuấn A không quan tâm, chăm sóc cho gia đình, lý do này mà chị T có 02 lần gửi đơn đến cơ quan anh Tuấn A công tác nhằm mục đích khuyên can anh Tuấn A chăm lo cho gia đình là có xảy ra, được các bên đương sự thừa nhận, đây là mâu thuẫn xuất phát tạm thời nguyên nhân xuất phát đều do lỗi của anh Tuấn A, chị T có suy nghĩ nhất thời nên gửi đơn nhưng không nhằm mục đích xâm phạm đến danh dự, uy tín của anh Tuấn A. Tuy nhiên, hôn nhân của hai người chưa lâm vào tình trạng trần trọng, đời sống chung còn có thể kéo dài, mục đích hôn nhân còn đạt được, nên yêu cầu của anh Tuấn A xin ly hôn với chị T là chưa thỏa mãn theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Tuấn A khởi kiện xin ly hôn với chị Phạm Ngọc T.

42 – 44

09

Bản án số 70/2018/HNGĐ-PT 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Cấp xét xử: Phúc thẩm

Về việc

Anh C và Chị T sống ly thân từ năm 2008 cho đến nay. Trong quá trình hai vợ chồng mâu thuẫn, gia đình hai bên cũng đã hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Năm 2013, anh đã từng nộp đơn xin ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Ba Đình. Sau đó anh đã rút đơn khởi kiện vì muốn hòa giải mâu thuẫn vợ chồng, nhưng không có kết quả. Đến nay, anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị T. Chị T trình bày: Chị không đồng ý ly hôn vì lý do xin ly hôn không chính đáng, anh C có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Chị vẫn yêu thương chồng nên không đồng ý anh C xin ly hôn.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Danh C đối với chị Nguyễn Thị Mai T. Ngoài ra còn quyết định về con chung và tài sản chung.

Chị T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm: đề nghị cấp phúc thẩm xử bác đơn ly hôn của anh Nguyễn Danh C với lý do Tòa án cấp sơ thẩm đưa vụ án ra xét xử vắng mặt chị, trong khi chị vẫn có mặt tại nơi tạm trú hợp pháp, làm việc cùng cơ quan với Nguyên đơn, cơ quan có địa chỉ và số điện thoại rõ ràng. Bản thân anh C đã vi phạm luật hôn nhân gia đình, không nhắc đến tài sản chung nhằm trốn tránh trách nhiệm với vợ con và chiếm đoạt tài sản. Tại phiên tòa phúc thẩm, anh C rút đơn khởi kiện, chị T không rút đơn kháng cáo.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định và tuyên xử: Trong quá trình giải quyết vụ án, bản thân chị T đã không thực hiện hết trách nhiệm thông báo cho Tòa án nơi cư trú mới sau khi chị có đơn xin tạm hoãn giải quyết vụ án để đi chữa bệnh. Tuy mâu thuẫn vợ chồng anh chị trên thực tế là có, nhưng tại phiên tòa chị T đã thể hiện rằng chị vẫn còn tình cảm với anh C, bày tỏ nguyện vọng tha thiết xin đoàn tụ để hàn gắn, nên Tòa án cũng tạo điều kiện cho hai bên đương sự có thời gian cải thiện quan hệ vợ chồng. Tuyên xử Chấp nhận một phần kháng cáo của chị Nguyễn Thị Mai T. Sửa bản án sơ đã tuyên và xử: Không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Danh C.

45 – 49

10

Bản án số 53/2018/HNGĐ-PT 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre

Cấp xét xử: Phúc thẩm

Về việc ly hôn

Cách đây khoảng 03 năm thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, mỗi người ở một nơi, chị Oanh E không đồng ý sinh thêm con cho anh T. Anh T nộp đơn yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn với chị Oanh E. Theo chị Oanh E trình bày: tháng 4/2018 thì anh T có mối quan hệ với người phụ nữ khác nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Cách đây 03 năm chị mang thai ngoài tử cung nên khó có con chứ không phải chị không chịu sinh con như anh T trình bày. Chị không đồng ý ly hôn vì còn thương chồng, con, sẽ tạo điều kiện để vợ chồng

chung sống với nhau và sinh con cho anh T.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Không chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Nguyễn Tấn T.

Anh T có đơn kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định và tuyên xử: anh T không chứng minh được lý do xin ly hôn chị Oanh E, trong khi đó chị Oanh E đã nêu được những giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề mà anh T cho là nguyên nhân mâu thuẫn, đồng thời chị Oanh E có thiện chí hàn gắn đoàn tụ vợ chồng để cùng nhau lo cho con. Tuyên xử không chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Tấn T.

50 – 55

11

Bản án số 50/2018/HNGĐ-PT 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre

Cấp xét xử: Phúc thẩm

Vợ chồng mâu thuẫn do anh H1 ghen tuông vô cớ nói chị có người đàn ông khác bên ngoài dẫn đến vợ chồng cãi vả, anh H1 có thái độ không tôn trọng gia đình bên chị H và vợ chồng sống chung với anh ruột của anh H1 nên có nhiều bất tiện. Nay qua yêu cầu ly hôn của chị H thì anh H1 không đồng ý vì vẫn còn thương vợ con.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Bùi Thị Ngọc H đối với anh Trần Văn H1.

Bùi Thị Ngọc H kháng cáo. Theo đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị. Về con chung chị yêu cầu được nuôi con chung và yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định và tuyên xử: vợ chồng của anh H1 và chị H chưa đến mức mâu thuẩn trầm trọng, còn hàn gắn được. Tuyên xử Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn chị Bùi Thị Ngọc H. Giữ nguyên Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm

56 – 59

12

Bản án số 45/2018/HNGĐ-PT 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau

Cấp xét xử: Phúc thẩm

Về việc xin ly hôn

Ông và bà Lê Thị G tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1977, không có đăng ký kết hôn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cải, tình trạng hôn nhân của vợ chồng không hạnh phúc. Nên ông yêu cầu được ly hôn với bà Lê Thị G. Hai người có bốn người con đều đã trưởng thành.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu của Ông Nguyễn Văn G được ly hôn với bà Lê Thị G. Tài sản chung do hai người tự thỏa thuận.

Bà Lê Thị G kháng cáo, yêu cầu cấp phúc thẩm xét lại vụ kiện theo hướng sử a án sơ thẩm, không chấp nhận khởi kiện củ a ông G. Và có cung cấp biên bản xử phạt vi phạm hành chính của ông G do quan hệ tình cảm không đúng chuẩn mực với người phụ nữ khác.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định và tuyên xử: Ông G, bà G có quan hệ hôn nhân đến nay trên 40 năm, có bốn người con chung đã trưởng thành đã chứng tỏ quan hệ hôn nhân của ông bà bền vững. Nguyên nhân ông G yêu cầu ly hô là do có quan hệ tình cảm với người khác nên công nhận cho ông G ly hôn trong trường hợp này là gián tiếp thừa nhận quan hệ tình cảm trái pháp luật của ông G như đã nêu trên. Tuyên xử Chấp nhận kháng cáo của bà Lê Thị G. Sửa bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu của của ông G xin ly hôn với bà G.

60 – 63

13

Bản án số 40/2018/HNGĐ-ST 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện U Minh tỉnh Cà Mau

Cấp xét xử: Sơ thẩm

Về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình

Trong quá trình chung sống vợ chồng anh không có mâu thuẫn, không có cự cải hay đánh nhau, vợ anh rất yêu anh và chung thủy với anh, đồng thời vợ anh cũng luôn làm tròn bổn phận dâu con đối với cha mẹ chồng, nhưng anh xét thấy cuộc sống vợ chồng không còn hợp nhau nên anh A yêu cầu được ly hôn với chị D.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định và tuyên xử: Trong quá trình chung sống vợ chồng anh không có mâu thuẫn, không có cự cải hay đánh nhau, vợ anh rất yêu anh và chung thủy với anh, đồng thời vợ anh cũng luôn làm tròn bổn phận dâu con đối với cha mẹ chồng, nhưng anh xét thấy cuộc sống vợ chồng không còn hợp nhau nên anh yêu cầu được ly hôn với chị D. Tòa án tuyên xử Không chấp nhận yêu cầu của anh Lê Quốc A về việc ly hôn với chị Huỳnh Hồng D.

64 – 66

14

Bản án số 35/2018/HNGĐ-PT 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang

Cấp xét xử: Phúc thẩm

Về việc tranh chấp xin ly hôn

Anh U và chị M đã ly thân nhau từ tháng 6/2017 đến nay nhưng do cơ sở kinh doanh ở ấp B, xã T nên ban ngày anh về đây kinh doanh, tối anh về nhà ở phường H còn chị M thì ở nhà ở ấp B, xã T. Vợ chồng anh chị không còn qua lại và sống chung. Nay anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn U. Anh Nguyễn Văn U được ly hôn với chị Nguyễn Thị Kim M. Giao 2 con chung cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, anh U cấp dưỡng mỗi cháu 2.500.000 đồng/tháng.

Chị Nguyễn Thị Kim M có đơn kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm, chị không đồng ý ly hôn với anh Nguyễn Văn U.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định và tuyên xử: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử chấpnhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Văn U là chưa xem xét hết các mâu thuẫn cũng như tình cảm, công việc kinh doanh, mối quan hệ của vợ chồng anh U đối với con cái, cũng như xem xét cho các đương sự có một khoảng thời gian tự khắc phục những hạn chế của vợ chồng, nhằm hàn gắn lại gia đình. Tuyên xử Chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn Thị Kim M, sửa bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm. Không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Văn U với chị Nguyễn Thị Kim M.

67 – 73

15

Bản án số 29/2018/HNGĐ-ST 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp

Cấp xét xử: Sơ thẩm

Về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con

Anh T yêu cầu ly hôn với chị D vì tình cảm không còn dù hai bên gia đình cố gắng hàn gắn. Cả 2 có một con chung là cháu Lê Nguyễn X, sau ly hôn, anh T giao con cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Chị T không đồng ý ly hôn vì còn thương chồng con.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định và tuyên xử: mâu thuẫn giữa anh T và chị D chỉ là sự nghi ngờ của cá nhân anh T là chị D có quan hệ bất chính với người khác nhưng anh không chứng minh được sự nghi ngờ đó và ngoài ra anh T không chứng minh được mâu thuẫn gì khác. Vì vậy tình cảm của vợ chồng của anh T và chị D chưa đến mức độ lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Tuyên xử Không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Lê Thanh T.

74 – 79

16

Bản án số 23/2018/HN-PT 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh An Giang

Cấp xét xử: Phúc thẩm

Về việc tranh chấp ly hôn

Ông Võ Thị Di Nh yêu cầu được ly hôn với bà Th. Từ năm 2017 đến nay vợ chồng xảy ra mâu thuẫn không thể tiếp tục sống chung. Bà Th cho rằng không có xảy ra mâu thuẩn nghiêm trọng, cuộc sống vợ chồng vẫn còn hạnh phúc, ông Nh vẫn đi làm ăn xa nhà thường xuyên từ năm 2005 cho đến nay. Bà Th không đồng ý ly hôn với ông Nh bà còn thương ông nên yêu cầu được đoàn tụ gia đình.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Nguyễn Thanh Nh đối với bà Võ Thị Di Th.

Ông Nguyễn Thanh Nh khángcáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét cho ông được ly hôn với bà Võ Thị Di Th.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định và tuyên xử: Xét thấy ông Nh chưa chứng minh được mâu thuẩn giữa vợ chồng trầm trọng, do ông Nhàn đi làm xa thường xuyên vắng nhà nên tình cảm vợ chồng có lạnh nhạt nhưng giữa vợ chồng không có người thứ ba chen vào đời sống tình cảm vợ chồng. Bà Th khẳng định sẽ cùng 02 con theo sống chung với ông Nh để đồng cam chịu khổ có vợ có chồng bà sẽ đi làm phụ kinh tế với ông để nuôi con chung. Tuyên xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thanh Nh, giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên.

80 – 83

17

Bản án số 08/2018/HNGĐ-ST 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển tỉnh Cà Mau

Cấp xét xử: Sơ thẩm

Về việc tranh chấp ly hôn

Trong quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, do không hợp nhau, bất đồng quan điểm nên hôn nhân không đạt được hạnh phúc. Do bà M thời gian trước có bỏ nhà đi ông có kêu về nhưng bà M không đồng ý, hiện tại vợ chồng đã ly thân được 04 năm. Nay ông xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên ông yêu cầu được ly hôn với bà Đào Thị M. Bà M trình bày rằng ông U có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác nên đã bỏ nhà đi 02 năm nay. Mặc dù ông U có lỗi với bà nhưng vì còn thương yêu chồng nên bà không đồng ý ly hôn và nếu ông U đồng ý quay về gia đình thì bà sẽ bỏ qua lỗi lầm của ông U.

Tòa án nhân dân cấp so thẩm nhận định và tuyên xử: mối quan hệ hôn nhân của ông U, bà M là không xảy ra mâu thuẫn, ông bà vẫn có thể tiếp tục duy trì đời sống chung và lý do xin ly hôn của ông U là không chính đáng. Tuyên xử Không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Trần Văn U đối với bà Đào Thị M.

84 – 87

18

Bản án số 04/2018/HNGĐ-ST 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Cấp xét xử: Sơ thẩm

Về việc ly hôn

Bà N và ông T tự nguyện đăng ký kết hôn năm 1981. Năm 2009, bà N bị tai biến, phải ngồi xe lăn, sức khỏe giảm sút, không đáp ứng được đòi hỏi về nhu cầu sinh lý cho ông T nên ông T thường xuyên gây gỗ, hành hung và đuổi bà ra khỏi nhà. Đồng thời, ly hôn còn tạo điều kiện để bà về sống chung với con nuôi, đồng thời tạo điều kiện cho ông T ra ngoài Bắc sống với con riêng của ông T. Ông T trình bày rằng Ông và bà N đã chung sống với nhau hơn 30 năm nên khi bà N bỏ nhà đi thì ông rất thương nhớ. Ông tuổi già, sinh lý yếu nên việc bà Nông trình bày ông đòi hỏi quan hệ tình dục rồi gây sự, đánh đập, đuổi bà N đi là không đúng. Hiện nay ông vẫn còn tình cảm với bà N nên tha thiết mong Tòa án hòa giải để vợ chồng ông được đoàn tụ, ông không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà N. Việc bà N trình bày ông muốn về sống với vợ con ở ngoài Bắc là không đúng sự thật.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định và tuyên xử: Bị đơn không thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng với bà T và tha thiết mong Tòa án hòa giải, động viên để vợ chồng đoàn tụ. Tuyên xử không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị N về việc xin ly hôn với ông Nguyễn Xuân T.

88 – 91

19

Bản án số 04/2018/HNGĐ-PT 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng

Cấp xét xử: Phúc thẩm

Về việc xin ly hôn

Sau khi kết hôn, đời sống hôn nhân không hòa thuận. Chị L có nói chuyện qua mạng với người yêu cũ, anh S biết được nên ghen tuông, hù dọa, khủng bố tinh thần, bôi nhọ danh dự và bắt chị L phải làm theo những gì anh muốn. Thấm chị anh S còn hành hung làm tình trạng sức khỏe của chị sa sút trầm trọng. Nên chị L yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh S. Anh S trình bày nguyên nhân chính phát sinh mâu thuẫn do chị L có quan hệ tình cảm với ngườ đàn ông khác và hay nói dối. Nay chị yêu cầu ly hôn thì anh không đồng vì anh vẫn còn tình cảm với chị.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Võ Thị Thùy L Cho ly hôn giữ chị Võ Thị Thùy và anh Nguyễn Tiến S. Anh S khồng đồng ý với bản án sơ thẩm, kháng cáo yêu cầu được đoàn tụ. Chị L không đồng ý kháng cáo của anh S đề nghị giải quyết như bản án sơ thẩm.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định và tuyên xử: việc chị đã kết hôn và chung sống với anh S nhưng lại có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác là vi phạm điều 19 Luật hôn nhân và gia đình quy định về tình nghĩa vợ chồng. Anh S xác định vẫn còn tình cảm với vợ, mong muốn được đoàn tụ, nguyện vọng này của anh S là chính đáng. Tại giai đoạn sơ thẩm anh S đã cung cấp các tài liệu chứng cứ chứng minh chị không chung thủy  nhưng không được cấp sơ thẩm đề cập mà xác định mâu thuẫn vợ chồng theo lời trình bày của chị L là chưa thỏa đáng. Tuyên xử Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Tiến S, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L.

92 – 95

20

Bản án số 74/2017/HNGĐ-ST 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện V tỉnh Đồng Tháp

Cấp xét xử: Sơ thẩm

Về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn

Chị N và anh V sống hạnh phúc đến tháng 02 năm 2017 thì mâu thuẩn xảy ra nguyên nhân là do anh V nói với chị N là anh V có thương người phụ nữ khác bên ngoài, vợ chồng bất đồng ý kiến, vợ chồng thường hay cãi vã, cuộc sống vợ chồng lạnh nhạt nên chị N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con chung. Anh V trình bày dù có chọc ghẹo người phụ nữ khác bên ngoài nhựng thật sự không có quan hệ tình cảm gì với ai bên ngoài. Vợ chồng không có mâu thuẫn gì và anh V còn thương vợ, con nên anh Trần Đức V không đồng ý ly hôn với chị Nguyễn Thị Ý N.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định và tuyên xử: Những lý do chị N đưa ra để yêu cầu được ly hôn với anh V đối chiếu với Điều luật đã trích dẫn trên là không có căn cứ pháp luật, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. Tuyên xử Không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Ý N với anh Trần Đức V.

96 – 99

21

Bản án số 68/2017/HNGĐ-PT 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Cấp xét xử: Phúc thẩm

Về việc Tranh chấp ly hôn

Anh C và chị Dương Thị Thanh H đăng ký kết hôn lần đầu năm 2008. Đến năm 2012 thì ly hôn. Năm 2013, anh chị đăng ký kết hôn lại nhưng chị H chứng nào tật nấy. Chị H mỗi lẫn cãi nhau với nhà chồng là đánh chồng. Từ khi đăng ký kết hôn lại, anh chị đã không còn ăn chung với nhau nữa. Hiện tại, anh đã thuê nhà ra ở một mình còn mẹ con chị H vẫn ở với bố mẹ anh. Anh chị không còn quan hệ sinh lý với nhau đã một năm nay. Anh xác định không còn tình cảm gì với chị H nữa nên anh xin được ly hôn. Chị H trình bày: Chị vẫn còn yêu anh C. Anh chị ly hôn lần đầu được khoảng 03 tháng thì đăng ký kết hôn lại và chị sinh cháu thứ hai với anh C. Chị cũng biết anh C có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác, có con với người phụ nữ đó rồi về ruồng rẫy vợ con nhưng chị vẫn tha thứ cho anh C để vợ chồng đoàn tụ.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn giữa anh Nguyễn Văn C và chị Dương Thị Thanh H.

Sau bản án sơ thẩm, anh C kháng cáo.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định và tuyên xử: để tạo điều kiện cho anh C, chị H đoàn tụ với nhau, cùng nuôi dạy con cái, Tòa án cấp sơ thẩm đã không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh C đối với chị H là có căn cứ và phù hợp pháp luật. Tuyên xử không chấp nhận kháng cáo của anh C, giữ nguyên bản án sơ thẩm

100 – 103

22

Bản án số 60/2017/HNGĐ-ST 

Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Hòa Thành tỉnh Tây Ninh

Cấp xét xử: Sơ thẩm

Về việc Tranh chấp ly hôn, nuôi con

Anh chị chung sống đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn về tài chính do anh L đưa tiền không đủ lo cho sinh hoạt trong gia đình và chi phí đi học của con nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau, anh L nói chuyện rất cọc cằn với vợ con, do đó cuộc sống chung không có hạnh phúc, đã ly thân khoảng 06 tháng nay. Chị Đ cho rằng không còn tình cảm với anh L nên yêu cầu được ly hôn.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định và tuyên xử: mâu thuẫn giữa anh chị có thể khắc phục được chưa đến mức trầm trọng để dẫn đến phải ly hôn, do đó yêu cầu ly hôn của chị Đ đối với anh L là không có cơ sở chấp nhận. Tuyên xử Không chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Đ đối với anh Nguyễn Tự L. Chị Đ và anh L vẫn còn quyền và nghĩa vụ vợ chồng với nhau.

104 – 106

 

Dịch vụ luật sư tư vấn ly hôn tại Hà Nội: 

Hotline/zalo : 0969603030 – Website : dịch vụ ly hôn

Địa chỉ : 276 Đường Láng, Đống Đa, Hà Nôij

Bài viết liên quan

09 69 60 30 30

Contact Me on Zalo